Bản Lác ở thung lũng Mai Châu: Thung lũng Mai Châu tại Hoà Bình rất đẹp, dân tộc Thái nơi đây rất đông, có nguồn gốc từ xa xưa. Du khách có ý định về Hoà bình nên tìm đến Mai Châu, ít nhất ở lại một tuần sẽ có dịp cùng sinh sống tập thể với người dân tộc, vừa cảm nhận vẻ đẹp của bản Lác Mai Châu, xem ca hát và vui chơi khèn sáo rộn ràng khắp một vùng thung lũng thơ mộng.
Từ thị xã Hoà Bình đến thung lũng Mai Châu chỉ có 60km. Ở quãng đường này, phải vượt qua dốc Cun khoảng 12km. Thật ra đây là con đường quanh co khá nguy hiểm và có đôi lúc tạo cảm giác khiến những du khách ngỡ rằng như thể đang chạm vào tầng mây. Đi tiếp lên dốc đỉnh là đến đèo Thung Nhúi. Khi tới đỉnh dừng lại, du khách chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bản Lác Mai Châu và rừng núi hùng vĩ, sẽ có cảm giác như đang ở lúc lơ lửng trong mây trời. Khi đó, huyện lỵ Mai Châu xinh đẹp đã lộ rõ dưới tầm mắt mọi người, một thung lũng ngút ngàn sắc cây lá, đồng ngô và từng ngôi nhà sàn tăm tắp như sẵn sàng đón chờ tất cả khách du lịch tới từ các nẻo phương xa.
Vùng núi nước ta có nhiều đèo, dốc. Nếu đèo là đường xuyên núi thì dốc là đường lên xuống giữa hai đầu cao và thấp của núi. Dốc Cun có đặc điểm Măng khá nổi tiếng, nhất là vùng Tây Bắc quê tôi.
Một ngọn núi dốc đứng dẫn chúng tôi từ vùng đất thấp của lưu vực sông Dahe đến vùng đất của bốn bộ tộc Mang đã sinh sống qua nhiều thế hệ – trung tâm văn hóa hòa bình nổi tiếng. So với nhiều con dốc ở miền núi, con dốc của bản không cao, cũng không dài, nhưng trải qua quãng đường hơn 7 km, có 10 khúc cua, một bên là vách núi, một bên là vực sâu. Con dốc vừa thơ mộng vừa nguy hiểm. Trên quốc lộ 6 đoạn qua tỉnh Hòa Bình, dốc Cun dài 120 km và đèo Thung Khe được biết đến với độ cao nguy hiểm.
Theo thống kê, có 20 cung đường đèo đẹp và hiểm trở nhất Việt Nam, trong số đó chỉ có Thung Khe. Tôi đã đi hơn nửa cung đường đèo dốc trên đất nước mình. Nhiều đoạn đèo đẹp đến mức khiến người ta không thể không dừng lại chụp ảnh và trở thành kỷ niệm để đời. Đặc biệt đoạn đèo Thung Khe và dốc Cun thuộc loại mới ra đời sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trước đó là Quốc lộ 6 về Tây Bắc dọc theo sông Đăk.
Vượt đèo dốc với người dân miền núi là điều phải làm để đến được những vùng đất khác nơi họ sinh sống và hoạt động. Dốc Cun chỉ có thế, cho gần hết bốn Mường Hòa Bình. Những người lạ đã từng đi qua con dốc của ngôi làng trước đây cảm thấy vừa sợ vừa ngạc nhiên trước cảnh đẹp này. Ai dám xây nhà trên những khúc cua nguy hiểm, thiếu an toàn đó.
Con dốc làng hôm nay không còn vẻ man rợ ngày xưa, bên cạnh nương rẫy còn thấp thoáng những mái nhà. Ngước nhìn xuống chân núi, sườn núi hai bên chắp vá, như hai chiếc áo khoác vá lại. Đầm Quỳnh Lâm ngày nay đã lau sậy, cơ bản đã phát triển và đô thị hóa, chỉ còn những gốc đa cổ thụ là còn tồn tại khá đông đúc của những xóm làng quanh chân dốc.
Đường Daocun dù đã được chỉnh trang lại nhiều lần so với thế kỷ trước, có thể gọi là “vách núi nơi tận cùng thế giới” nhưng dốc làng vẫn lưu giữ kỷ lục về TNGT trên quốc lộ 6. Nhưng trước năm 2002, khi nghị định của chính phủ cho phép, huyện Kỳ Sơn được chia thành 2 huyện: Kỳ Sơn và Cao Phong, giống như ngày nay, nhân dân 2 bên trong và ngoài huyện vẫn ngày đêm qua lại.
Mấy năm đầu xa cách, những người công nhân ở khu cao thủ vẫn bình an vô sự đưa đón qua lại trên dốc làng. Tôi nhớ khi còn đi làm, nếu có chương trình cấp cơ sở, hầu như tôi phải leo lên dốc làng, vì hầu hết huyện, xã đều nằm khuất sau đỉnh đồi của dốc làng. Tôi còn không nhớ nổi mình đã lên xuống con dốc đó bao nhiêu lần. Tôi đã nhiều lần dừng lại trên đỉnh dốc và nhìn vào vùng đất nơi đặt tỉnh lỵ hơn 100 năm trước, có những nét tương đồng, giống như đứng giữa đèo Mapiling (Hejiang), con sông lớn là con sông lớn. Sông Nho Quế, tuy nhiên, “Bắc Giang độc Bắc” là sông Tao hội tụ trong vùng đất của bộ tộc Tao, và nó là sông Dacai cho đất nước.
Xa xa là Khói Hoa, quê hương của hai chàng trai, và có Đam-Mát. Hai người đã bao lần lên xuống con dốc Cun này, vào vườn Núi Côi với các tiên nữ – xứ sở Mường Thàng, và kết thúc bằng một câu chuyện tình bi tráng – trong lời Mo Tiêu thuộc di sản văn hóa của người Môn. Sau đó, các chiến sĩ cách mạng từ Chiến khu Mông Kwee-Meng Wang, Chiến khu Thạch Yên-Mường Thàng xuôi về Cun cướp chính quyền thực dân, phong kiến ở Phương Lâm-TP Hòa Bình ngày nay.
Dốc làng vẫn là con dốc tiềm ẩn nhiều nguy hiểm cho người dân, ở góc độ người đi đường: lên dốc thì vất vả, xuống dốc thì nguy hiểm nên dốc làng vẫn là nơi được người ta chú ý hơn là nơi người ta thích thú. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể bỏ qua nó? Các con dốc đi đến các khu vực khác.
Ai tôn vinh nó với sứ mệnh cao cả là bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước? Chú He đã đặt tên cho đoạn nối Mapilong Pass với Dongwen và Miaowa là “Con đường Hạnh phúc” trong suốt cuộc đời của mình. Ai đã đặt tên này cho Poe, và chế độ Lang Dao xuất hiện ở Mangshi khi nào? Đã có làng sóng thì phải có làng dốc? Vào thời kỳ này, các thương nhân đi ngược dòng sông (chỉ có ngày hôm đó), và để đến được trung tâm của Meng, họ phải vượt qua con dốc cao nhất ở khu vực này!
Con người vốn dĩ vô cảm với thiên nhiên, chưa đáp ứng thỏa đáng với nó nên hệ lụy ngày càng lộ rõ. Trong tương lai, người dân sẽ còn phải trèo qua sườn đồi này. Nếu là đường đèo thì vẫn còn hy vọng có đường hầm xuyên qua núi để đến đích. Đội ngũ cán bộ quản lý các cấp, các ngành nhất định sẽ tìm cách trả lại vẻ đẹp nên thơ cổ kính trên con dốc làng và giảm bớt hiểm họa ngày đêm chằng chịt dòng người, xe cộ. Dốc Cun sẽ là một trong những khu trượt tuyết đẹp và an toàn nhất cả nước.
Tới vẻ đẹp của bản Lác Mai Châu, nhà sàn tại thung lũng này rộng rãi, sạch đẹp, cách mặt đất 1,50 m và trên các trụ gỗ to vững chắc. Khi đến trước nhà, bạn sẽ được mời múc nước rửa chân trước khi bước lên cầu thang. Đây là một phong tục nhiều ý nghĩa và ai nấy cũng đều hài lòng. Lịch sự như Mai Châu đấy.
Nhà sàn nơi đây làm từ tre hoặc bương. Mái lợp gồi hoặc mây. Các cửa sổ đều rộng để thông thoáng và lấy khí tốt. Ở đó cũng là nơi mà chủ nhà đặt những chậu hoa phong lan hoặc lồng chim để trang trí vừa thư thái tận hưởng cuộc sống an nhàn.
Người dân tộc Mường là một trong những dân tộc lớn tại Việt Nam, chiếm khoảng 1,5 triệu người, phân bố chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc như Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn La, Hà Tĩnh, và các tỉnh phía Nam như Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Phước.
Người Mường chủ yếu sinh sống trên các vùng đồi núi, trải qua nhiều đời sống gắn bó với nông nghiệp và chăn nuôi, truyền thống sản xuất nông nghiệp của họ chủ yếu là canh tác lúa nước, cây trồng ngô, khoai và sắn. Ngoài ra, họ cũng có nghề dệt, làm gốm, chế tạo đồ dùng và điêu khắc gỗ, thể hiện nghệ thuật truyền thống đặc sắc của mình.
Văn hóa của người Mường rất đặc sắc và phong phú, được thể hiện qua các nghi lễ và tín ngưỡng tôn giáo truyền thống của họ, bao gồm cúng tế, rước đèn, rước đầu năm, lễ hội cúng cơm mới, lễ hội sinh nhật, lễ hội Tết Điện Biên, lễ hội Đinh Công, v.v. Trong văn hóa Mường, nhạc cụ đàn Tính và thể loại ca trùng dương rất phổ biến.
Ngoài ra, người Mường còn có truyền thống văn học, lịch sử và ngôn ngữ phong phú, với hơn 200 bài thơ Mường được lưu giữ. Ngôn ngữ Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ-Me và có tổng cộng 13 chữ cái.
Trang phục truyền thống của người Mường thường là áo dài và quần dài, được làm bằng vải cotton hoặc lụa tơ, được trang trí bằng các họa tiết hoa văn màu sắc đẹp mắt.
Tuy nhiên, như nhiều dân tộc khác, người Mường vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống như đói nghèo, thiếu nước, thiếu giáo dục, thiếu cơ sở hạ tầng, và vấn đề khác liên quan đến đời sống và phát triển kinh tế.
Nếu du khách quan sát sẽ thấy một khung dệt vải thổ cẩm đặt sẵn cạnh một ô cửa sổ nào đó. Đó là nơi làm việc thường ngày của các cô gái lớn trong nhà.
Dệt vải thổ cẩm là một nghệ thuật truyền thống của người dân tộc Thái ở Việt Nam. Đây là một phương pháp dệt vải thủ công được thực hiện bằng tay bằng cách dùng các sợi tơ tự nhiên và các loại cây thuốc phục vụ cho việc nhuộm màu.
Quá trình dệt vải thổ cẩm của người Thái bắt đầu từ việc chọn nguyên liệu tốt nhất như tơ tằm, lụa, bông và len. Sau đó, các sợi tơ được nhuộm màu bằng các thảo dược và rượu truyền thống. Các bộ phận khác của quá trình dệt như thêu và đan cũng được thực hiện thủ công.
Với những mẫu vải độc đáo và tinh tế, dệt vải thổ cẩm của người Thái đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa và truyền thống của đồng bào này. Các mẫu vải thổ cẩm thường được sử dụng để làm quần áo, khăn quàng và các vật dụng gia đình khác.
Ngoài ra, dệt vải thổ cẩm còn là một nguồn thu nhập quan trọng cho người dân Thái ở các vùng miền núi của Việt Nam. Công việc này cũng đã được đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO từ năm 2019 để bảo vệ và giới thiệu cho thế giới về văn hóa truyền thống của người Thái Việt Nam.
Lại có một tập tục đáng quý và đáng khâm phục của vùng thung lũng này. Chuyện kết hôn của trai gái Mai châu cũng rất ý tứ. Trai tìm vợ, gái lấy chồng sẽ xem xét, chọn lựa không phải bởi sắc vóc hay dáng vẻ bên bề ngoài cũng không vì lời lẽ nhẹ nhàng lướt qua lại, mà con trai chỉ cần nhìn lên giá xếp chăn, đệm, gối sạch sẽ, với nhiều màu sắc hoa văn tinh tế là thấy ngay bàn tay chăm chút tỉ mẩn cùng sự khéo léo của cô con gái đó và có thể cưới làm vợ trong tương lai hay không?
Người con gái muốn biết người con trai sắp trở thành chồng mình như thế nào thì trông lên các cột nhà của chàng trai, nếu gặp vô số vảy cá to cùng với những đuôi cá đã được dán lên cột nhà thì thấy ngay rằng anh con trai trong nhà này rất tài giỏi và có khả năng đánh bắt thật nhiều cá.
Hai sự kiện này có ý nghĩa cũng khá hữu ý. Đâu phải hát hay nhảy giỏi là đủ cho cuộc sống hạnh phúc vợ chồng!
Du khách tới nhà thăm viếng hay ở lại qua đêm thường được ông chủ nhà trải chiếu hoa mời ngồi, rồi bày ra giữa chiếu mộ vò rượu cần băng nếp cẩm. Trong nhà lúc đó, bà chủ nổi lửa đồ xôi trong cái chõ cao lêu khêu theo kiểu dân tộc Thái. Bạn hãy nhìn qua cửa sổ, sẽ thấy ở mặt đất phía dưới có một cái ao cá nhỏ nước trong vắt hình vuông sát cột nhà, có những con cá đang bơi lội nhởn nhơ, đớp mồi. Nếu ông chủ nhà dành cho bạn quyền chọn con cá nào để ông bắt đúng con cá đó cho vào nồi cháo thì bạn đừng chần chừ và đừng bao giờ từ chối, bởi điều này sẽ làm cho ông chủ nhà hiếu khách có thể thất vọng và buồn lòng.
Rượu cần Tây Bắc là một loại rượu truyền thống của người dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Tây Bắc của Việt Nam như Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai… Rượu cần được làm từ gạo nếp nguyên chất, không pha trộn với bất kỳ chất gì khác, và được lên men bằng cách để gạo nếp ngâm nước cho đến khi nở hạt, sau đó được để lên men trong một thời gian nhất định. Sau khi lên men, rượu cần sẽ có hương vị ngọt, thơm, có tính axit, với nồng độ cồn khoảng 25-30 độ.
Một đặc trưng của rượu cần Tây Bắc là cách thưởng thức, khi uống rượu, người ta thường dùng một ống tre dài khoảng 1 mét để hút từ từ từ chum rượu, trong khi ống tre này được đặt dọc theo thân người từ miệng đến dưới bụng. Thủ tục này được coi là cách thưởng thức truyền thống, đồng thời cũng mang lại cảm giác đặc biệt cho người uống rượu. Ngoài ra, rượu cần Tây Bắc thường được uống trong các dịp lễ tết, cưới hỏi, đón khách, hoặc các buổi liên hoan, đại hội.
Tuy nhiên, rượu cần Tây Bắc cũng có một số rủi ro với sức khỏe nếu uống quá mức hoặc không đúng cách. Việc uống rượu cần quá nhiều sẽ gây ra tình trạng say xỉn, đối với người uống lần đầu thì cần phải tập thể dục, nghỉ ngơi, uống nước trước khi uống rượu cần. Ngoài ra, cần tránh uống rượu cần trong thời gian dài hoặc quá nhiều lần, đặc biệt là đối với người bệnh gan, tiểu đường hoặc đang dùng thuốc.
Tóm lại, rượu cần Tây Bắc là một loại rượu truyền thống đặc trưng của người dân tộc thiểu số miền núi phía Tây Bắc Việt Nam. Nếu uống đúng cách và trong giới hạn, rượu cần cũng có tác dụng tốt cho sức khỏe, đồng thời
Và bạn cũng chẳng nên ngại ngùng với những cuộc vui ở thung lũng khi màn đêm buông xuống. Hãy cùng Moonlight Ecohouse tận hưởng vẻ đẹp của bản Lác Mai Châu bạn nhé!
Leave a reply